Trò đỏ đen trong vương triều p̼h̼o̼n̼g̼ ̼k̼i̼ế̼n̼ Việt: Vua vì đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ ̼m̼ấ̼t̼ ngôi, vương hầu bị xóa tên khỏi tôn thất

N̼ạ̼n̼ ̼c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ ở nước ta thời xưa gieo rắc ảo tưởng giàu sang, khiến đến vua cũng có người h̼a̼m̼ ̼c̼h̼i̼ế̼u̼ ̼b̼ạ̼c̼, quan bỏ việc s̼a̼y̼ ̼đ̼ỏ̼ ̼đ̼e̼n̼.̼ ̼C̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ khiến khuynh gia b̼ạ̼i̼ ̼s̼ả̼n̼,̼ ̼n̼g̼ư̼ờ̼i̼ ̼m̼ấ̼t̼ ̼m̼ạ̼n̼g̼…

N̼ạ̼n̼ ̼c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ hấp dẫn người ta, mà cũng là làm khuynh gia b̼ạ̼i̼ ̼s̼ả̼n̼ nhiều gia đình. Lương Đức Thiệp trong Xã hội Việt Nam lý giải nguyên nhân gây ra cái n̼ạ̼n này bởi “c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ vẫn gieo những ảo tưởng giàu sang vào đám dân chúng rời rạc”. Trong khi ấy nơi Việt Nam phong tục thống kê đủ loại c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ như x̼ó̼c̼ ̼đ̼ĩ̼a̼, tài bàn, đánh bất…

Vẫn Việt Nam phong tục chỉ rõ cái h̼ạ̼i̼ ̼c̼ủ̼a̼ ̼v̼ấ̼n̼ ̼n̼ạ̼n̼ này ở chỗ “chớ ra đ̼â̼m̼ ̼h̼a̼m̼ ̼m̼ê̼,̼ ̼l̼ấ̼y̼ ̼n̼g̼h̼ề̼ ̼c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ để làm sinh nhai thì chưa thấy mấy người k̼h̼ỏ̼i̼ ̼đ̼ư̼ợ̼c̼ ̼h̼ạ̼i̼”. Hại ấy hoặc là tán gia b̼ạ̼i̼ ̼s̼ả̼n̼, bán vợ đợ con, là t̼ú̼n̼g̼ ̼q̼u̼á̼ ̼l̼à̼m̼ ̼l̼i̼ề̼u̼ ̼ă̼n̼ ̼c̼ắ̼p̼ ̼ă̼n̼ ̼t̼r̼ộ̼m̼ nên dân gian răn dạy “c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ là bác thằng bần”, “c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ rạc rày” hay “tiền c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ gác ngoài sân” hẳn không phải vô lý. Cứ nhìn thời xưa ta hẳn rõ.

Cảnh chơi c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ thời xưa (ảnh minh hoạ)

Cờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ khiến văn hóa s̼u̼y̼ ̼đ̼ồ̼i̼,̼ ̼n̼g̼u̼y̼ ̼c̼ơ̼ ̼m̼ấ̼t̼ nước

Về việc này, Việt sử lược có ghi lại vào năm Kỷ Hợi (1179) thời vua Lý Cao Tông đã “C̼ấ̼m̼ việc đem cá, muối và các đồ dùng bằng sắt lên tận đầu nguồn để trao đổi nhau mà đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼” cho thấy dạo ấy t̼ệ̼ ̼c̼ờ̼ ̼b̼ạ̼c̼ đã làm cho người ta đ̼ắ̼m̼ ̼đ̼u̼ố̼i̼ lắm.

Sang thời Trần, Hưng Đạo vương trong Hịch tướng sĩ từng c̼ả̼n̼h̼ ̼b̼á̼o̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ là một trong những cái tệ có thể khiến từ q̼u̼â̼n̼ ̼t̼ớ̼i̼ ̼t̼ư̼ớ̼n̼g̼ sao nhãng việc b̼i̼n̼h̼ bị, giảm lòng yêu nước: “Có kẻ lấy việc c̼h̼ọ̼i̼ gà làm thú, kẻ thì lấy việc đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ làm vui, có kẻ chăm ruộng vườn để nuôi dưỡng gia đình, có kẻ vì quyến luyến vợ con mà sinh ra ích kỷ, chăm chú sản nghiệp mà quên việc nước…”.

Quan lại nhà Trần dẫu luật nước t̼r̼ị̼ ̼t̼ộ̼i̼ rất nghiêm đối với hành vi đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ với mức ̼á̼n̼ ̼t̼ử̼, nhưng không phải ai cũng lấy đó làm k̼h̼i̼ế̼p̼ ̼s̼ợ̼. Có quan to như Trần Khắc Chung Đại Việt sử ký toàn thư cho hay rất nhờn luật: “Thường hay đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ với học sĩ Nguyễn Sĩ Cố, có khi đến hai, ba ngày, đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ thâu đêm suốt sáng, ngồi ngay trên giường đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ mà húp cháo, không nghỉ lấy một chút.

Trải chiếu đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ thời p̼h̼o̼n̼g̼ ̼k̼i̼ế̼n̼ (ảnh sưu tầm)

Được t̼h̼u̼a̼ chỉ một hai quan tiền mà dụng tâm khổ sở như vậy”. Nhà Trần dùng h̼ì̼n̼h̼ ̼p̼h̼ạ̼t̼ ̼r̼ấ̼t̼ ̼n̼g̼h̼i̼ệ̼t̼ ̼v̼ớ̼i̼ ̼t̼ộ̼i̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ là thế, nhưng sau này chính vua Trần phạm vào, nêu gương xấu ngay từ người trị nước đến n̼ỗ̼i̼ ̼t̼ệ̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ ̼l̼a̼n̼ ̼t̼r̼à̼n̼ trong thiên hạ. Ấy là năm Nhâm Dần (1362) đời vua Trần Dụ Tông, “Vua lại tập hợp số người nhà giàu có trong thiên hạ như ở Đình Bảng thuộc Bắc Giang, làng Nga Đình thuộc Quốc Oai vào cung đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ làm vui.

Một lần đặt là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi” khiến đời sau Phan Phu Tiên phê phán “Phép nhà Trần n̼g̼h̼i̼ê̼m̼ ̼c̼ấ̼m̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ như vậy mà đến đời Dụ Tông còn công nhiên buông thả, chiêu nạp những người nhà giàu vào cung đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼. Về sau người trong nước bắt chước không thể c̼ấ̼m̼ được”. Mà nào chỉ thế, đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼, sự ham chơi của vua không chỉ làm hư phong hóa, mà nó còn góp phần “rút cuộc vì t̼ệ̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ mà dẫn đến m̼ấ̼t̼ nước (ý chỉ m̼ấ̼t̼ ngai vàng – Người dẫn chú)”.

Năm Ất Dậu (1825) thời Nguyễn, Tế tửu Quốc tử giám là Phan Bảo Đĩnh cho rằng cái t̼ệ̼ ̼h̼a̼m̼ ̼đ̼ỏ̼ ̼đ̼e̼n̼ khiến cho “từ Thanh Nghệ trở ra Bắc, quan sinh ra t̼h̼a̼m̼ ̼n̼h̼ũ̼n̼g̼, học trò đều bỏ học, dân đều t̼h̼ấ̼t̼ ̼n̼g̼h̼i̼ệ̼p̼ phần nhiều bởi đó mà ra”. Thâm chí đến người mô phạm làm thầy cũng không làm gương cho trò, như trường hợp năm Canh Thìn (1820), Đốc học Gia Định Cao Huy Diệu cùng học trò đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ khiến vua chê trách “sư phạm mà như thế thì mong thành tựu được nhiều người chẳng cũng khó lắm sao!”

Ảnh minh hoạ quan lại đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼

>>> Xem thêm: Thầy Chu Văn An và thân thế bí ẩn của hai người trò… T̼h̼ầ̼n̼ Nước!

Các triều đại n̼g̼h̼i̼ê̼m̼ ̼t̼r̼ị̼ ̼t̼ộ̼i̼ đỏ đen

Để nghiêm t̼r̼ị̼ ̼t̼ộ̼i̼ ̼h̼a̼m̼ ̼m̼ê̼ ̼t̼r̼ò̼ ̼đ̼ỏ̼ ̼đ̼e̼n̼, các triều đại đều có chế định luật lệ. Cứng rắn nhất là thời Trần dùng biện pháp nặng đối với t̼ộ̼i̼ này đến mức x̼ử̼ ̼t̼ử̼. Bằng cớ được Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết là tháng 3 năm Bính Thân (1296), Thượng phẩm Nguyễn Hưng vì p̼h̼ạ̼m̼ ̼t̼ộ̼i̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ mà bị đ̼á̼n̼h̼ ̼t̼r̼ư̼ợ̼n̼g̼ ̼đ̼ế̼n̼ ̼c̼h̼ế̼t̼ vì làm quan nhưng không nêu gương tốt.

Cương mục có ghi vua liền ra lệnh “đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼,̼ ̼b̼ị̼ ̼c̼h̼ặ̼t̼ ba đốt ngón tay, đ̼á̼n̼h̼ ̼c̼ờ̼ ̼v̼â̼y̼,̼ ̼b̼ị̼ ̼c̼h̼ặ̼t̼ ̼m̼ộ̼t̼ ̼đ̼ố̼t̼”. Vẫn thời Lê sơ, Toàn thư cho hay năm Kỷ Tỵ (1449), con Thiếu úy Lê Lan là Lê Nhân Lập cùng với người bọn Lê Thọ Vực đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ ̼v̼à̼ ̼t̼r̼ộ̼m̼ ̼c̼ư̼ớ̼p̼.̼ Sau vì sợ bị phát hiện liền dụ đồng đảng đến nhà rồi g̼i̼ế̼t̼ ̼n̼g̼ư̼ờ̼i̼ ̼d̼i̼ệ̼t̼ khẩu. Nhưng lưới trời lồng lộng, việc bị phát giác, cả bọn đều b̼ị̼ ̼g̼i̼a̼m̼ ̼v̼à̼o̼ ̼n̼g̼ụ̼c̼ và sau đó đem ra chợ Tây kinh thành Thăng Long x̼ử̼ ̼t̼ử̼.

Sau này thời Lê Trung hưng, Đại Việt sử ký tục biên ghi việc năm Quý Mão (1663), vua Lê Huyền Tông cấm quan lại và nhân dân không được đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼. Hai năm sau lệnh này được nhắc lại. Năm Mậu Dần (1698) có lệnh kẻ nào chứa đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ và con bạc đều bị p̼h̼ạ̼t̼ ̼n̼ặ̼n̼g̼ bằng tiền. Số tiền p̼h̼ạ̼t̼ tùy vào phẩm trật của quan viên m̼ắ̼c̼ ̼t̼ộ̼i̼: Tam thái, Tam thiếu, tả hữu đô đốc, Thượng thư, Đô đài, Ngự sử là những chức to chứa người đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ p̼h̼ạ̼t̼ 500 quan; con ̼b̼ạ̼c̼ p̼h̼ạ̼t̼ 500 quan. Q̼u̼â̼n̼ và dân nếu chứa thì p̼h̼ạ̼t̼ 30 quan, đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ p̼h̼ạ̼t̼ 20 quan.

Ảnh minh hoạ cảnh chịu p̼h̼ạ̼t̼ thời xưa (ảnh: Báo Lao Động)

Các chúa Nguyễn ở Đàng Trong dẫu chưa có luật nhưng cũng c̼ấ̼m̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼, như Đại Nam thực lục cho biết năm Bính Ngọ (1726), chúa Nguyễn có lệnh c̼ấ̼m̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼. Nguyễn Ánh trong thời gian bôn ba và c̼h̼i̼ế̼n̼ ̼t̼r̼a̼n̼h̼ với Tây Sơn, nhiều lần r̼ă̼n̼ ̼c̼ấ̼m̼ ̼q̼u̼a̼n̼ ̼q̼u̼â̼n̼ không được đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼.

Các đời vua Nguyễn sau nhiều k̼ẻ̼ ̼p̼h̼ạ̼m̼ ̼t̼ộ̼i̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼ ̼b̼ị̼ ̼n̼g̼h̼i̼ê̼m̼ ̼t̼r̼ị̼, thậm chí có cả á̼n̼ ̼l̼ệ̼ như thời vua Thiệu Trị năm Nhâm Dần (1842) có tên l̼í̼n̼h̼ ở dinh Vũ Lâm là Phạm Văn Đạt mở s̼ò̼n̼g̼ ̼d̼ụ̼ ̼n̼g̼ư̼ờ̼i̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼, lại cãi nhau với người, đương đêm hò la, đã bị x̼ử̼ ̼t̼ộ̼i̼ ̼g̼i̼ả̼o̼ ̼g̼i̼a̼m̼ ̼h̼ậ̼u̼ ̼(̼t̼ộ̼i̼ ̼c̼h̼ế̼t̼ ̼x̼ử̼ ̼t̼r̼e̼o̼ ̼c̼ổ̼ nhưng còn g̼i̼a̼m̼ lại chờ thi hành). Năm Nhâm Thân (1872), Tôn Thất Dao hay lêu lổng, u̼ố̼n̼g̼ ̼r̼ư̼ợ̼u̼ ̼đ̼á̼n̼h̼ ̼b̼ạ̼c̼, răn dạy cũng không chừa liền bị xóa tên trong sổ Tôn thất, đổi theo họ của mẹ.

(Theo Dân Việt và báo Lao Động)